Các phiên bản Douglas_A-1_Skyraider

Một chiếc Douglas A-1E (AD-5W) (ký hiệu 52-135206) đang bayNhững chiếc Douglas AD-6's (A-1H) thuộc Phi đội VA-42 bên trên Vịnh Subic.

Skyraider trải qua tổng cộng bảy phiên bản chính, bắt đầu với AD-1, rồi AD-2AD-3 với nhiều cải tiến nhỏ, rồi đến AD-4 trang bị động cơ R-3350-26WA mạnh mẽ hơn. Phiên bản AD-5 rộng hơn một cách đáng kể, cho phép hai thành viên đội bay ngồi cạnh nhau (nhưng không phải là phiên bản nhiều chỗ ngồi đầu tiên, kiểu AD-1Q có hai chỗ ngồi và AD-3N ba chỗ ngồi); nó cũng có cả phiên bản bốn chỗ ngồi tấn công ban đêm AD-5N. Phiên bản AD-6 là một kiểu AD-4B cải tiến với thiết bị ném bom tầm thấp được nâng cấp, và phiên bản sản xuất cuối cùng AD-7 được nâng cấp với động cơ R-3350-26WB.

Việc sản xuất chấm dứt vào năm 1957 với tổng cộng 3.180 chiếc được chế tạo. Tuy nhiên, vào năm 1962, những chiếc Skyraider còn lại được đặt tên lại từ A-1D đến A-1J và sau đó được sử dụng bởi cả Không quânHải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.

  • XBT2D-1: Chiếc nguyên mẫu một chỗ ngồi ném bom bổ nhào và ném bom-ngư lôi dành cho hải quân.
  • XBT2D-1N: Chiếc nguyên mẫu tấn công ban đêm ba chỗ ngồi. Chỉ có ba chiếc được chế tạo.
  • XBT2D-1P: Chiếc nguyên mẫu trinh sát hình ảnh. Chỉ có một chiếc được chế tạo.
  • XBT2D-1Q: Chiếc nguyên mẫu phản công điện tử hai chỗ ngồi. Chỉ có một chiếc được chế tạo.
  • BT2D-2 (XAD-2): Chiếc nguyên mẫu tấn công mặt đất được nâng cấp. Chỉ có một chiếc được chế tạo.
  • AD-1: Kiểu sản xuất hằng loạt đầu tiên. 242 chiếc được chế tạo.
  • AD-1Q: Phiên bản phản công điện tử hai chỗ ngồi của AD-1. 35 chiếc được chế tạo.
  • AD-1U: Kiểu AD-1 với radar phản công điện tử và thiết bị kéo mục tiêu giả, không trang bị vũ khí và động cơ không phun nước.
  • XAD-1W: Chiếc nguyên mẫu cảnh báo sớm trên không ba chỗ ngồi, là nguyên mẫu của kiểu AD-3W. Chỉ có một chiếc được chế tạo.
  • AD-2: Kiểu cải tiến, trang bị động cơ Wright R-3350-26W 2.700 mã lực (2.000 kW). 156 chiếc được chế tạo.
  • AD-2D: Tên đặt không chính thức dành cho những chiếc AD-2 được điều khiển từ xa, được sử dụng để thu thập những vật liệu nhiễm phóng xạ trên không sau các cuộc thử nghiệm hạt nhân.
  • AD-2Q: Phiên bản phản công điện tử hai chỗ ngồi của AD-2. 21 chiếc được chế tạo.
  • AD-2QU: AD-2 với radar phản công điện tử và thiết bị kéo mục tiêu giả, không trang bị vũ khí và động cơ không phun nước. Chỉ có một chiếc được chế tạo.
  • XAD-2: Tương tự như XBT2D-1 ngoại trừ động cơ, gia tăng trữ lượng nhiên liệu.
  • AD-3: Phiên bản turbo cánh quạt được đề nghị, là tên gọi ban đầu của chiếc A2D Skyshark sau này.
  • AD-3: Khung máy bay chắc hơn, cải tiến càng đáp, thiết kế nóc buồng lái mới. 125 chiếc được chế tạo.
  • AD-3S: Phiên bản dùng trong chiến tranh chống tàu ngầm, chỉ có chiếc nguyên mẫu được chế tạo.
  • AD-3N: Phiên bản tấn công ban đêm ba chỗ ngồi. 15 chiếc được chế tạo.
  • AD-3Q: Phiên bản phản công điện tử, các thiết bị phản công điện tử được sắp xếp lại tạo sự thoải mái cho đội bay. 23 chiếc được chế tạo.
  • AD-3QU: Máy bay kéo mục tiêu giả, nhưng đa số được giao như là phiên bản AD-3Q.
  • AD-3W: Phiên bản cảnh báo sớm trên không. 31 chiếc được chế tạo.
  • XAD-3E: Kiểu AD-3W được cải tiến dùng trong chiến tranh chống tàu ngầm với cánh quạt của Aeroproducts.
  • AD-4: Kiểu có bộ càng đáp chắc chắn hơn, radar cải tiến, la bàn G-2, bốn pháo 20 mm và 14 bộ phóng rocket Aero. 372 chiếc được chế tạo.
  • AD-4B: Phiên bản đặc biệt có thể mang vũ khí nguyên tử, cũng được trang bị bốn pháo 20 mm. 165 chiếc được chế tạo mới và 28 chiếc được chuyển đổi.
  • AD-4L: Được trang bị để hoạt động trong mùa đông tại Triều Tiên. 63 chiếc được chuyển đổi.
  • AD-4N: Phiên bản tấn công ban đêm ba chỗ ngồi. 307 chiếc được chế tạo.
  • AD-4NA: Tên gọi của 100 chiếc AD-4N không có các thiết bị tấn công ban đêm, nhưng trang bị bốn pháo 20 mm để hoạt động tại Triều Tiên trong vai trò tấn công mặt đất.
  • AD-4NL: Một phiên bản của AD-4N. 36 chiếc được chuyển đổi.
  • AD-4Q: Phiên bản phản công điện tử hai chỗ ngồi của AD-4. 39 chiếc được chế tạo.
  • AD-4W: Phiên bản cảnh báo sớm trên không ba chỗ ngồi. 168 chiếc được chế tạo.
  • Skyraider AEW. Mk 1: 50 chiếc AD-4W được chuyển cho Hải quân Hoàng gia.
  • A-1E (AD-5): Hai ghế lái ngồi cạnh nhau dành cho phi công và phi công phụ, không có các phanh bổ nhào. 212 chiếc được chế tạo.
  • A-1G (AD-5N): Phiên bản tấn công ban đêm bốn chỗ ngồi, với radar phản công. 239 chiếc được chế tạo.
  • EA-1F (AD-5Q): Phiên bản phản công điện tử bốn chỗ ngồi. 54 chiếc được chuyển đổi.
  • AD-5S: Một chiếc nguyên mẫu để thử nghiệm Bộ dò từ trường bất thường (MAD), một loại thiết bị chống tàu ngầm.
  • EA-1E (AD-5W): Phiên bản cảnh báo sớm trên bốn chỗ ngồi.
  • A-1H (AD-6): Máy bay tấn công mặt đất một chỗ ngồi, trang bị ba phanh bổ nhào. Đế giữa thân mang được 1.600 kg (3.500 lb) vũ khí có đường kính đến 760 mm (30 in), bộ cắt bom phối hợp 360/760 mm (14/30 in) và thiết bị ném bom tầm thấp/tầm cao. 713 chiếc được chế tạo.
  • A-1J (AD-7): Kiểu sản xuất hằng loạt cuối cùng, gắn động cơ R3350-26WB, những cải tiến về cấu trúc để kéo dài tuổi thọ cánh. 72 chiếc được chế tạo.
  • UA-1E: Phiên bản dân dụng của kiểu AD-5.